Sách giảng

PHÁP PHẬT LÀ THUỐC TRỊ TÂM BỊNH CỦA CHÚNG SANH

PHÁP PHẬT LÀ THUỐC TRỊ TÂM BỊNH CỦA CHÚNG SANHTrong kinh Phật dạy pháp của Phật là những phương thuốc trị tâm bệnh cho chúng sanh. Chúng sanh có tám muôn, bốn ngàn phiền não, thì Phật có tám muôn, bốn ngàn pháp môn. Như vậy mỗi pháp của Phật trị mỗi bệnh của chúng sanh. Nếu chúng sanh có bệnh, biết rõ bệnh của mình,lấy pháp của Phật trị thì bệnh sẽ lành. Còn người có bệnh mà không biết thì chịu thua, hoặc biết bệnh nhưng không biết thuốc cũng không dùng được.

Như vậy, pháp Phật là pháp trị bệnh cho chúng sanh. Thế nhưng, pháp Phật đã có hai ngàn năm trăm mấy chục năm rồi, mà bệnh chúng sanh cũng không hết, bởi vì chúng sanh nhiều bệnh quá.

Như chúng ta đã biết khi Ðức Phật giác ngộ dưới cội Bồ đề rồi, Ngài tìm đến năm anh em ông Kiều Trần Như để hoá độ. Bài pháp đầu tiên Phật nói là Tứ diệu đế. Tứ diệu đế chia ra hai phần, một phần chỉ ra sự đau khổ, một phần dạy cách diệt đau khổ.

Về phần đau khổ, Phật chỉ thân này chứa đựng bao nhiêu sự đau khổ, nên có thân là có khổ. Vậy cái khổ đó ai đặt ra, từ đâu đến? Ðức Phật bảo cái khổ đó có nguyên nhân. Nguyên nhân đó gọi là gì? Gọi là tập. Như vậy khổ là một lẽ thật, nguyên nhân tạo khổ cũng là một lẽ thật. Vì vậy nên nói khổ đế, tập đế.

Khổ đã không phải ngẫu nhiên đến mà có nguyên nhân. Vậy khi biết nguyên nhân rồi muốn cho hết khổ thì phải tiêu diệt nguyên nhân gây khổ. Tiêu diệt được nguyên nhân gây khổ thì sẽ hết khổ. Nhưng muốn tiêu diệt nguyên nhân đau khổ, không thể nói suông, mà phải có phương pháp. Cũng như thầy thuốc biết bệnh đang hành, bệnh nhân đang khổ, thì phải truy nguyên tìm ra vi trùng gây bệnh. Biết chính xác vi trùng rồi thì phải diệt vi trùng, diệt vi trùng xong mới hết bệnh. Nhưng nói diệt vi trùng suông thôi thì không được, phải có phương thuốc cụ thể, mới diệt hết vi trùng.

Cũng vậy, Phật dạy tất cả khổ của chúng sanh đều có nguyên nhân. Nếu chúng ta tra cứu biết rõ nguyên nhân rồi thì phải tiêu diệt nó, muốn tiêu diệt nó phải có phương pháp. Nên Phật nói khổ đế là quả, tập đế là nhân. Diệt đế là diệt hết nhân khổ. Muốn diệt hết nhân khổ phải có phương pháp, phương pháp đó là đạo đế. Có phương pháp mới dùng phương pháp ấy diệt hết nguyên nhân đau khổ. Do đó, diệt đế là quả giải thoát, còn nhân của quả giải thoát là đạo đế, tức phương pháp diệt khổ.

Ðức Phật dạy chúng sanh đâu khác gì việc của các thầy thuốc đang làm. Nên Ðạo Phật rất thực tế, không nói chuyện viển vông xa vời gì hết. Ai có bệnh chỉ cần dùng thuốc đúng thì trị lành bệnh. Trị lành bệnh là hết khổ, nên nói đạo Phật là đạo cứu khổ chúng sanh.

Ở thế gian, thầy thuốc trị về thân bệnh. Trong đạo, Phật trị tâm bệnh. Giữa hai việc điều trị đó, việc nào quan trọng hơn? Ðiều trị tâm bệnh quan trọng hơn. Bởi vì dù thầy thuốc hay mấy biết bệnh nhân đang bị đau tim hay đau phổi. Thầy thuốc có thuốc, nhưng người bệnh cứ rầu, cứ buồn, thì trị nổi không? Không nổi, vì tâm người bệnh không an, không vui thì điều trị khó lành. Vì vậy, nên tâmbệnh rất là hệ trọng. Nếu thầy thuốc có được hai phương thuốc, một trị thân bệnh, một trị tâm bệnh thì hay biết mấy. Trị như vậy mới toàn hảo, còn chỉ một phần thì chưa được.

Ðể trị tâm bệnh, Phật dạy những pháp để tiêu trừ nguyên nhân sanh ra bệnh. Bệnh của chúng sanh tới tám muôn, bốn ngàn, Pháp của Phật cũng có tới tám muôn, bốn ngàn. Nhưng nói về cội gốc của bệnh, thì có sáu món căn bản phiền não. Trước khi nói pháp trị bệnh, chúng ta cần phải biết các thứ bệnh. Bệnh tình đó đang thế nào, muốn giới thiệu thuốc thì phải biết hậu quả hay hiện trạng bệnh đang hoành hành ra sao.

Bây giờ thử nghiệm lại tất cả chúng ta trong hiện đời khổ hay vui? Nếu vui thì không có bệnh, không bệnh thì cần gì thuốc. Nếu có bệnh mới tìm nguyên nhân gây bệnh và trị bằng cách nào. Trong nhà Phật nói con người bị bốn, hoặc tám thứ khổ vây hãm, không ai thoát khỏi. Sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, có ai khỏi đâu? Như vậy quả thật chúng ta là bệnh nhân rồi. Ngoài ra còn ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ. Nghĩa là thương yêu xa lìa khổ, oán thù mà gặp mặt hoài khổ, mong muốn không được khổ, thân này tự bại hoại không an khổ. Kiểm lại trong tám thứ khổ, chúng ta đều có đủ. Rõ ràng xác định được chúng ta là bệnh nhân rồi, thì mới nói tới trị liệu.

Muốn trị bệnh thì phải phăng tìm nguyên nhân. Nguyên nhân nào sanh ra những thứ khổ đó. Phật nói nhiều lắm nhưng ở đây tôi chỉ kể sáu thứ: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Vì có nhân này nên có quả kia. Thí dụ như tham, căn bản là tham sống. Có người nào không tham sống sợ chết đâu? Nhưng rồi cũng phải chết, bởi vậy nên khổ. Bây giờ mình hết tham sống thì không sợ chết. Mà không sợ chết thì đâu còn khổ.

Từ tham sanh bao nhiêu thứ khổ. Ðức Phật chia ra hai thứ: một là tham về ngũ dục, hai là ngũ trần. Tham ngũ dục là: tài, sắc, danh, thực, thụy. Tài là tiền của, sắc là sắc đẹp, danh là danh vọng, thực là ăn uống, thụy là ngủ nghỉ ; năm cái này để cho mình tham. Từ những tâm tham này sanh ra các thứ khổ kia. Vậy chúng ta phải lấy thuốc gì để trị vi trùng tham?

Tham tài phải lấy hai thứ thuốc hoà hợp vào trị. Thuốc thứ nhất là bố thí, thuốc thứ hai là vô thường. Phật dạy tất cả tài sản của chúng ta bị năm nhà cướp lấy. Năm nhà là gì? 1. Nước lụt. 2. Trộm cướp. 3. Con bất hiếu. 4. Lửa cháy. 5. Vua chúa hay quan quyền tìm cách cưỡng đoạt.

Như chúng ta chứng kiến nạn lụt miềnTrung vừa rồi, bao nhiêu năm dành dụm chỉ một cơn lũ là cuốn sạch, không còn gì cả. Như vậy tài sản của chúng ta có bảo đảm đâu, nên Phật nói nó thuộc về năm nhà. Nếu không bị lụt, có khi bị cháy cũng rụi. Không cháy thì bị trộm cướp, không bị trộm cướp thì con bất hiếu phá hết sự nghiệp. Không bị con cái thì gặp những thế lực bên ngoài cưỡng bức cướp lấy.

Tuy nói tiền bạc của cải của mình nhưng không bảo đảm giữ được lâu dài, như vậy tham để làm gì? Nghĩ đến lý vô thường chúng ta bớt tham. Bớt tham thì bớt khổ. Con người thường có bệnh, hễ tiền của trong tay thì được một đòi hai, được hai đòi bốn, muốn thêm hoài. Ở đây Phật dạy phải xả, phải bố thí. Nên nghĩ chúng ta có bao nhiêu đủ ăn rồi, phần dư bố thí cho người. Như vậy là bớt lòng tham. Nếu người dư dả đem bố thí, vì biết rằng của cải giữ không được, không có tâm gom góp, keo xẻn là đã trị được bệnh tham tài. Rõ ràng có bệnh thì có thuốc. Biết được nguyên nhân vì tham tài, mà cầu bất đắc nên khổ. Muốn nhiều của nhưng muốn hoài không được thì khổ. Bây giờ mình đem ra bố thí tức không cần giữ gìn nữa thì đâu còn lòng tham. Mà không tham thì đâu có khổ.

Ðối với người tham sắc, Phật dạy dùng thuốc quán bất tịnh để trị. Bởi vì khi tham sắc thì thấy người đẹp, tự nhiên chúng ta nghĩ ngợi người đó đẹp thế này, người đó quý, sang thế nọ v.v… Ngược lại, nếu chúng ta quán thân mình bẩn thỉu không ra gì, thân mọi người cũng vậy, quán đến khi mình gớm thân mình, thì thân người khác mình cũng gớm luôn. Mà gớm thì hết ham. Ðó là cách trị bệnh tham sắc.

Ðến tham danh phải dùng pháp quán vô thường. Bởi vì mọi thứ trên đời này được rồi sẽ mất. Thí dụ như người ứng cử tổng thống được đắc cử, thì bốn năm năm cũng hết nhiệm kỳ, có còn mãi đâu. Bởi nó không bền, vì vậy phải quán vô thường, quán nó là khổ. Khi chưa được danh vì lo lắng chạy chọt đủ thứ đã là khổ. Khi được rồi lo nó mất lại khổ nữa. Nếu thật sự nó mất thì càng buồn. Cho nên quán tham danh gốc là khổ đau. Người không hiếu danh dù được mời gọi cũng không muốn. Nếu có làm việc gì thì vì tất cả lợi ích chung chớ không vì danh vị của mình. Ðã vì tất cả lợi ích chung thì được không mừng, mất cũng không lo, như vậy mới không khổ.

Ðến việc ăn (thực) cũng là gốc của khổ. Phải dùng hai thứ thuốc vô thường và bất tịnh hoà lại. Thức ăn khi còn ở miệng thì quý, nhưng nuốt qua khỏi cổ rồi thì hết quý. Giả sử nó không chịu vào mà ụa ra thì có gớm không? Rất gớm. Như vậy nó quý khi còn ở ngoài. Nuốt vô rồi nó trở thành dơ, đâu phải là quý. Tại vì chúng ta cứ mê say nên cho là quý. Nếu thấy nhơ nhớp thì đâu có tham. Lại một điều nữa, thức ăn ngon được bao lâu? Chỉ một hai phút ở trong lưỡi trong miệng thôi, qua khỏi cổ thì hết ngon rồi, nên nó tạm bợ vô thường, tham lam gì. Xét như vậy thì bớt được tham ăn.

Tới bệnh tham ngủ. Nhà Phật dạy muốn trừ bệnh tham ngủ phải dùng thuốc vô thường, thuốc tinh tấn hoà lại. Nên nghĩ mạng sống này không bao lâu, không có gì bảo đảm. Giờ nào còn sống thì mừng giờ đó, qua giờ khác thì không thể biết được. Vì thân này rất mỏng manh, rất tạm bợ. Nên chúng ta hiện sống, có những việc nên đáng làm, mà không lo làm cứ nằm ngủ hoài. Nhà Phật có câu:”Cần tu như lửa cháy đầu”, nếu đóm lửa rơi trên đầu thì chúng ta chần chờ hay phủi ngay? Vô thường đến bất kể lúc nào, chúng ta không thể lường trước được. Vì vậy giờ nào còn sống còn khỏe thì nên làm tất cả những gì có thể làm, chớ không bỏ trôi ngày giờ lãng phí một cách vô ích.

Như vậy vừa quán vô thường, vừa tinh tấn thì trừ được bệnh tham ngủ. Nên tôi thường nói với Tăng Ni muốn trị bệnh tham ngủ thì dùng cây roi tinh tấn mà đánh cho nó thức.

Như vậy là trị năm thứ ngũ dục bằng năm thứ thuốc rồi. Ở đây, tôi không nói ngũ trần vì ngũ trần cũng anh em với ngũ dục vậy thôi.

Qua sáu thứ căn bản phiền não: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Bệnh tham đã có mấy bài thuốc ở trên rồi, đến đây khỏi phải nhắc lại. Kế bệnh sân, thì trị bằng hai thứ thuốc từ bi và nhẫn nhục. Nhẫn nhục là giải quyết cấp thời, khi người ta làm trái ý, mình nổi sân lên liền phải nhẫn, buông xả đi thì gọi là nhẫn nhục. Buông xả dừng được cơn thịnh nộ rồi, nhưng lâu lâu nhớ lại cũng tức. Nghĩ rằng người ta nói bậy, làm bậy, mình mới giận. Nhưng nếu chúng ta biết nghĩ lại, tại vì ngu si nên họ làm quấy thật đáng thương. Nghĩ như vậy mới hết giận luôn, chớ còn đè nén mai sau nhớ lại giận nữa thì không được. Cho nên có thuốc nhận nhục mà không có thuốc từ bi thì cũng dễ tái phát. Có nhẫn nhục rồi phải có từ bi quán theo sau đó. Bởi vì nếu chúng ta có tình thương thì lỗi nhiều thấy ít, nếu không thương thì lỗi ít thấy nhiều, không thể tha thứ được. Vì vậy, phải vừa nhẫn nhục, vừa quán từ bi mới trị hết bệnh nóng giận.

Ðến si, tức si mê. Si mê có hai tầng bậc. Thứ nhất, không biết gì là tôi, gì là phước, gì là tà, gì là chánh, không phân biệt rành rẽ. Ðó là si mê hạng thấp. Tuy nhiên, quý Phật tử thử xét lại xem thiện, ác chúng ta đã phân biệt rành chưa? Ðôi khi chúng ta tưởng như mình đã biết rành về thiện ác nhưng có nhiều cái thiện mà thành ác, ngược lại ác thành thiện. Thí dụ cô giáo phạt học trò lười, trốn học hoài thì thấy như ác. Nhưng nhờ phạt nó sợ cố gắng học, như vậy thì ác hay thiện? Còn giả sử như kẻ ghiền áphiện bị ụa mửa, có người thấy vậy mua á phiện đưa cho họ hút, như vậy thiện hay ác?

Mới nhìn như thiện vì kẻ đang khổ, cho hút thì họ đỡ khổ, nhưng sự thật thì ác vì làm cho họ ghiền hoài. Nên nhiều việc mới nhìn thấy thiện, mà hậu quả lại ác, hoặc ngược lại mới nhìn thấy ác nhưng hậu quả lại thiện. Vì vậy phân biệt thiện ác cũng không phải dễ, phải có trí tuệ mới có thể phân biệt được. Phân biệt được thiện ác mới phân biệt được tội phước. Cái gì tội, cái gì phước? Nếu việc làm giúp ích được người lâu dài thì có phước. Còn việc làm trước mắt thấy như thiện mà tạo thành cái khổ cho người lâu dài thì trở thành ác. Như vậy thiện ác thật khó xử, khó giải quyết. Nhưng nếu chúng ta phân biệt được thiện ác thì tội phước mới không lầm lẫn. Cũng vậy, đối với tà chánh, rất khó phân biệt. Có những trường hợp mới nghe như phải, như chánh, nhưng mà rốt cuộc lại tà.

Như có người trong đạo Phật, rất cung kính Phật. Bởi quá cung kính nên tin Ðức Phật có đầy đủ vạn năng, xin cái gì cũng được. Vì vậy mỗi khi có tai nạn hoặc gặp vui buồn gì đó cứ đến xin Phật cầu Phật. Quan niệm như vậy là đã thành tà. Cung kính Phật tại sao lại tà, đó là vấn đề mà đôi khi Phật tử chúng ta không nhận ra. Ðức Phật từng tuyên bố ta không có quyền ban phước giáng hoạ cho ai. Vậy chúng ta xin Phật cho hết tai họa thì có ngược lại lời Ngài nói không? Phật dạy một đằng, chúng ta làm một ngả, không phải tà là gì? Trong đạo người mắc kẹt bệnh này rất nhiều. Tu thì không chịu tu mà cứ xin. Phật dạy dùng pháp để trị tâm bệnh mà chúng ta cứ xin là sao? Có nhiều Phật tử nói “tôi theo đạo Phật 10 năm rồi” mà động tới thì phiền não đủ thứ hết. Tu mà không hết khổ thì đạo Phật vô hiệu, không giá trị. Như vậy kẻ ấy làm tăng giá trị đạo Phật hay làm giảm giá trị đạo Phật? Việc này thật tế nhị. Nên quý Phật tử phải hiểu tin Phật là nên tin điều gì và không nên tin điều gì. Người ta cứ ỷ lại vào Phật, cầu mong Phật cho cái này cái nọ. Ðược như ý thì nói Phật linh quá rủ nhau đi chùa, nếu không được như ý thì sao? Phật bây giờ không linh, Bà Chúa Xứ linh hơn đi xin Bà Chúa Xứ, thế là đã lạc vào đường tà.

Phật dạy chúng ta phương pháp tu, nếu có nóng giận nên tu pháp gì, đâu có cầu ai. ng dụng pháp Phật để tu thì phiền não giảm, đau khổ bớt. Như vậy Phật cứu khổ cho mình rồi. Cũng như thầy thuốc khám bệnh , cho thuốc, nhưng bệnh nhân không chịu uống, vậy làm sao hết bệnh. Kẻ ấy thầy thuốc cũng chịu, không có cách khác. Phật là thầy thuốc trị tâm bệnh cho chúng sanh. Nhưng chúng sanh không chịu dùng thuốc thì làm sao hết bệnh, nên theo đạo Phật mà vẫn tà như thường. Hiện nay có rất đông người theo đạo Phật như vậy. Nhiều huynh đệ than phiền nói tôi tu mà cứ chỉ trích người này chỉ trích người kia. Vì tôi thấy việc tà mà không xây dựng, không chỉ dạy thì đối với Phật pháp tôi đã có tội rồi. Do đó muốn phân biệt tà chánh rất là khó.

Ðó là chưa kể nhiều người tuyên bố mình là Bồ tát tái thế để độ chúng sanh, hay họ tuyên bố có câu chú lá bùa trị lành tất cả bệnh. Quý Phật tử nghĩ sao, điều đó chánh hay tà? Trong nhà Phật dạy không có vị Bồ tát nào hiện thân ra đời mà vẫn vỗ ngực xưng tên là Bồ tát cả.

Bồ tát đi lẫn trong quần chúng hành mật hạnh Bồ tát. Nếu nói ta là Bồ tát để được người cung kính lễ lạy thì làm sao hành hạnh Bồ tát? Chỉ như có người bệnh phải cõng đi bệnh viện thì Bồ tát làm. Người gặp cảnh nghèo đói cần giúp thì Bồ tát giúp thầm lặng, không hiện tướng khác người. Ðôi khi vì thử người, Bồ tát hiện thân thấp kém để thử người mến đạo. Nếu xưng Bồ tát, mọi người đều quý kính hết thì làm được gì. Tự xưng Bồ tát còn phải hạnh Bồ tát, huống nữa tự xưng Phật thì chúng ta bái, không nên lại gần, vì đó là tà rồi.

Ðiểm kế nữa, người dạy tu mà bảo phải thề độc, nếu bỏ đạo sẽ bỏ đọa địa ngục v.v… Như vậy tà hay chánh? Chắc chắn là tà rồi. Bởi tà nên họ sợ mình bỏ. Vì vậy, bắt thề độc, lỡ vào rồi phải trung thành. Ðó là tà giáo, nhiều Phật tử bị lầm đáng thương lắm.

Ðức Phật dạy chúng ta quy y Phật thề tránh điều dữ nguyện làm việc lành chứ không thề thốt gì hết. Lúc nào không muốn tu nữa thì thôi, không có chuyện hăm dọa bỏ đạo bị đọa địa ngục. Phân biệt tà chánh phải dùng trí tuệ. Muốn trị bệnh si mê thì vận dụng trí tuệ quán chiếu mới trị được. Bởi vì từ si mê người tatạo đủ thứ nghiệp, chịu đủ thức khổ. Nay muốn có trí tuệ chúng ta phải học chánh pháp (hữu sư trí) và tu thiền định (vô sư trí). Lấy trí tuệ dẹp si mê.

Phần thứ nhất tôi nói về si mê cạn, phần thứ hai tôi nói về si mê sâu. Si mê sâu là giả mà tưởng là thật, cái thật lại không biết. Như thân này giả mà chúng ta tưởng thật. Ðó là si mê. Si mê sâu này rất nguy hiểm vì chấp gỉa làm thật, nên không bao giờ biết được cái thật. Rồi đến tâm cũng chấp cái giả của tâm cho là tâm thật. Trong kinh Lăng Nghiêm, phần bảy, chỗ hỏi tâm, Phật hỏi Ngài A Nan: cái gì là tâm của ông? Ngài A Nan trả lời:Bạch Thế Tôn cái hay suy nghĩa là tâm con. Phật quở: Cái đó không phải tâm ông.

Ngài hoảng hốt quá, tưởng mình không có tâm sao? Phật nói: Ông có tâm, nhưng cái suy nghĩ đó không phải là tâm ông. Phật liền dùng thí dụ chàng diễn Nhã Ðạt Ða đứng trước mặt gương soi mặt, thấy đầu mặt rõ ràng trong gương; khi úp gương xuống đầu mặt mất. Ông ôm đầu chạy nói:”Tôi mất đầu rồi, tôi mất đầu rồi”. Tại sao ông ôm đầu chạy lại la mất đầu? Tại chấp bóng cho là đầu thật, nên mất bóng liền ôm đầu thật chạy la mất đầu. Chúng ta cũng vậy, suy nghĩ phân biệt mà cho là tâm mình. Thật ra đó là duyên theo bóng, nghĩ về người thì có bóng người, nghĩ về vật có bóng vật. Nó lăng xăng nhưng tìm lại thì mất dạng. Không phải bóng là gì?

Khi không suy nghĩ, không tính toán gì hết, lặng yên lúc đó có tâm mình không? Tâm là cái biết, mắt thấy biết, tai nghe biết. Vậy mà chúng ta không bao giờ nhận cái đó, cứ nhận bóng dáng cho là mình. Như vậy chúng ta cũng giống Diễn Nhã Ðạt Ða, cứ chấp bóng là tâm mình. Chấp bóng là mình tức chấp tâm giả cho là thật, thì không bao giờ thấy được tâm thật. Nên biết tại sao chúng ta phải tu thiền, là để cái tâm tạm bợ bóng dáng đó lặng xuống, chớ nếu theo nó liên tục thì làm gì thấy cái thật. Tôi thường ví dụ như cái gương, nhìn vào thấy có bóng người, bóng vật. Lúc đó chúng ta thấy mặt gương rõ không? Bởi mãi lo thấy bóng mà quên gương. Nếu khi không thấy bóng mới nhận ra mặt gương luôn trong sáng. Cũng vậy, tâm chúng ta luôn hiện tiền trong sáng. Nhưng chạy theo vọng tưởng thì quên tâm. Khi dừng được vọng tưởng thì cũng như gương không có bóng, mặt gương hiện rõ ràng. Chúng ta tu thiền chủ yếu là vì thế.

Tâm theo cảnh là tâm tạo nghiệp, buồn thương giận ghét là mầm tạo nghiệp. Nếu không nghĩ ngợi lăng xăng thì có buồn thương giận ghét không? Tâm không buồn thương giận ghét đâu có sanh diệt. Không sanh diệt mới thật là cái chân thật của mình. Do đó si mê tầng thứ hai này rất sâu. Tầng thứ nhất vừa nói có thể biết liền, còn thứ si mê này thật thâm trầm, Phật gọi đó là vô minh.

Ðối với si mê cạn thì chúng ta dùng trí tuệ hữu học phân biệt chánh, tà. Ðối với si mê sâu chấp giả làm thật thì phải có công phu tu. Từ trí do huân tu mới nhận chân được lẽ thật. Ðây là nhân giải thoát sanh tử.

Tóm lại muốn trị bệnh si mê phải dùng thuốc trí tuệ và thiền định. Trí tuệ là trí hữu học, còn thiền định để tăng trí vô sư. Như chỉ thắp đèn mới phá được bóng tối. Nếu không như thế thì làm sao phá được phiền não. Cho nên người học Phật không có trí tuệ thì không làm sao phá được phiền não. Vì trí tuệ phá si mê, mà si mê sanh ra phiền não. Si mê chấp thân, si mê chấp tâm v.v… Bao nhiêu khổ đau theo đó mà ra.

Ðến bệnh mạn, tức ngã mạn, tại sao chúng ta có bệnh khinh mạn hay ngã mạn này? Vì một là chấp thân, hai là chấp tâm. Thí dụ người đẹp và sang thì thấy ta hơn thiên hạ, hoặc người thông minh học giỏi cũng thấy ta hơn người. Từ hai thứ chấp thân chấp tâm, thân đẹp thì cho là quý, tâm lanh lợi thì cho là khôn ngoan, đó là bệnh ngạo mạn.

Bệnh này phải dùng phá ngã để trị. Phá ngã có hai: về thân thì do tứ đại hoà hợp, về tâm thì tất cả suy nghĩ đều là vọng tưởng hư dối, có gì thật đâu mà chấp, ta đã không thật mà trọng mình khinh người là điều vô lý, nên dùng pháp quán vô ngã, thân tứ đại duyên hợp nên không có ngã thật, tâm cũng là bóng dáng của ngoại trần nên cũng không thật, có gì là khôn, có gì là hơn. Lấy vô ngã để phá ngã mạn, đó là thuốc trị bệnh mạn.

Ðến nghi, thường nghi có hai loại: Trong nhà thiền hay nói đa nghi đa ngộ thì cái nghi này là nghi quý. Còn nghi bệnh như: một là nghi mình, hai là nghi Tam bảo, nghi không biết Phật có thật không, pháp Phật dạy có đúng không, các thầy tu có thật không. Do nghi như vậy nên đối với Tam bảo mất hết lòng tin, kế đến nghi mình tu không nổi, đã nghi mình, nghi Tam bảo thì làm sao tiến được. Cho nên muốn hết nghi phải lấy thuốc chánh tín để trị, tức là lấy lòng tin, lòng tin ở đây là từ trí tuệ mà có, chứ không phải tin mù quáng. Bởi tin có hai: Tin do trí tuệ gọi là chánh tín. Tin một cách một mù quáng goị là mê tín. Chữ tin này cần phải hiểu cho rõ ràng.

Dùng chánh tín tức là lòng tin chân chánh để dẹp cái nghi. Chánh tín là tin thế nào? Một là tin Tam bảo bằng trí tuệ, Ðức Phật có thật hay không, chúng ta phải tra khảo tìm hiểu cho rõ. Khi nào biết thật có Ðức Phật là con người tu hành thành đạo thì đó mới gọi là tin Phật. Thứ hai là tin pháp của Phật, pháp này đúng sự thật hay huyền hoặc sai với chân lý. Nếu đúng thì chúng ta mới tin pháp. Thứ ba là tin Tăng, những vị xuất gia tu theo Phật gồm có Tăng Ni. Các vị này có tu chân chánh hay không? Nghiệm xét thấy hoàn toàn chân chánh đúng với chánh pháp của Phật mới tin. Nhờ biết nhận định từ trí tuệ nên goị là chánh tín. Vì vậy, Phật dạy phải văn, tu, tư. Xét đủ thì mới đủ lòng tin Tam bảo. Tin Tam bảo là tín tha, kế đến phải tự tín, tức là tin nơi mình. Tin chắc rằng mình có thể tu được. Nhờ tin như vậy nên mới cố gắng tu, nếu không chúng ta sẽ sợ mình ăn chay không nổi, ngồi thiền không nổi. Không tin mình thì không thể làm gì được, mặc dù tin Tam bảo. Cho nên tin Tam bảo còn phải tự tin nữa. Những việc Phật làm được chúng ta cũng làm được. Mình sẽ tu được, không thua ai. Lòng tự tín phải mãnh liệt như vậy. Tóm lại lấy thuốc chánh tín để trị bệnh nghi ngờ.

Cuối cùng là ác kiến. Trong phần ác kiến có: thân kiến, biến kiến, kiến thủ. Giới cấm thủ, tà kiến. Ôủ đây, tôi chỉ nhấn mạnh phần tà kiến, bởi vì phần này rất tế nhị. Thường người ta nói tà tà lệch, là nghiêng. Kiến ở đây không phải thấy mà nhận định. Tà kiến nghĩa là nhận định một cách sai lầm. Thí dụ như nói chết là hết, hoặc cho rằng chết rồi, linh hồn vẫn còn hoài. A trở lại làm A, muôn kiếp vẫn là A thôi, đây là tà kiến một bên chấp đoạn kiến, một bên chấp thường kiến. Ngoài ra, như chuyện đến núi Sam xin vay tiền Bà Chúa Xứ về làm ăn v.v… là vừa thuộc về mê tín, vừa là tà kiến.

Nếu nói Bà Chúa Xứ linh thiêng, ai vay tiền Bà đều phát đạt hết thì từ Long Xuyên lên Châu Ðốc mọi người phải giàu hết vì họ ở gần, dễ chạy lên vay, nhưng thực tế xét kỹ từ Long Xuyên lên Châu Ðốc hay vùng lân cận được bao nhiêu người giàu? Lẽ ra từ gần tới xa, nhưng ở gần đã không ra gì thì ở xa làm sao xin được. Tin như vậy là tin nhảm nhí, tin tà kiến. Tà kiến ngay con người mình, cứ nghĩ mình có linh hồn, mình chết rồi linh hồn còn nguyên trở lại làm người. Nhà Phật gọi như thế là tà kiến, vì chấp thường kiến. còn cho rằng chết là hết, không có nhân quả báo ứng gì cả thì thuộc về đoạn kiến, cũng là tà kiến.

Trong đạo Phật không nói còn mãi, cũng không nói chết là hết. Quan trọng là phải làm sao nhận ra nơi con người mình phần nào sanh diệt, phần nào không sanh diệt. Nhận được như vậy rồi phải làm sao cho phần không sanh diệt không bị che phủ. Còn trên mặt sanh diệt, nói còn hoài là sai, nói hết cũng sai. Bởi vì lâu nay người ta hay nói cái gì mất rồi là hết, nhưng sự thật không hết. Tất cả đều là một vòng chuyển biến tụ tán, tụ tán. Kể cả các hình thức nhỏ nhất như bụi đất, cục đất to đập nát thành bụi nhỏ, nhìn cục đất thì thấy mất, nhưng nó thành cát bụi chớ không mất, chỉ chuyển biến đổi hình đổi dạng thôi. Thân này cũng vậy, khi hoại đất trả về đất, nước trả về nước, gió trở về gió, lửa trả về lửa chớ không mất, không hết. Vậy mà chúng ta thường nhận định sai lầm, chết là hết. Ðó là tà kiến, nên người Phật tử phải biết từ thể xác đến tinh thần đều tùy duyên. Chúng luân chuyển tụ nơi này tan nơi kia chớ không hết. Tùy duyên luân chuyển tức là luân hồi.

Biết rõ nguyên nhân tạo thành luân hồi như vậy mới có thể chận đứng nó lại. Hiểu thế mới tu giải thoát sanh tử. Nhiều người nói tu để giải thoát sanh tử nhưng hỏi giải thoát cái gì, làm sao giải thoát thì không biết. Nếu chấp thân sanh diệt là thân mình, chấp tâm sanh diệt là tâm mình, đó là tiếp tục tạo nghiệp luân hồi, không bao giờ dừng. Còn không chấp hai thứ đó mà sống được với cái chân thật không sanh diệt của mình thì không tạo nghiệp. Ðó là giải thoát, không bị lôi cuốn đi trong sanh tử nữa.

Có người hiểu lầm đạo Phật, nói đạo Phật là đạo cứu khổ, nhưng sao quý Thầy ít làm việc từ thiện hơn người tu đạo Thiên Chúa. Thầy chỉ giảng kinh như vậy thì cứu khổ chúng sanh chỗ nào? Bởi vì cái nhìn của đạo Phật khác đạo Thiên Chúa, thí dụ như thấy đứa bé ra bãi biển vun cát làm núi non chơi, một lát sóng biển ào lên cuốn trôi mất hết, rồi nó tiếp tục làm nữa, cũng bị cuốn trôi mãi, như vậy tội nghiệp nó tốn công vô ích, sao không làm gì khác hay hơn.

Ðây cũng vậy, nếu chúng ta còn luân hồi, bỏ thân này tụ lại thân khác kiếp kiếp đời đời không ra khỏi. Nên Phật nói không có khổ nào lớn bằng khổ luân hồi. Cuộc sống mấy chục năm ra gì, có thiếu, có đói cũng là tạm thời. Dài thì chết muộn, ngắn thì chết sớm, tất cả cũng phải chết, không ai thoát được. Như vậy điều đáng lo nhất là làm sao ngay nơi thân này đừng tiếp tục làm việc vô ích nữa. Chúng ta xét xem cứ mỗi lần sanh ra chết đi ta làm được những gì cho người cho mình, hay sanh ra lớn lên rồi già chết, đời này qua đời khác, cứ như vậy hoài thật là vô lý. Nên Phật nói đi trong luân hồi không có khổ nào bằng. Cứu khổ chúng sanh là làm sao cho họ thoát khỏi luân hồi. Ðó là gốc của đạo Phật, điều này chỉ có Phật thấy chứ chúng ta đâu thấy. Con người chỉ thấy đói rách và những thứ cần thiết trong cuộc sống. Mà thân này đã tạm bợ thì những thứ phụ thuộc trong cuộc sống càng tạm bợ hơn. Vì vậy Phật nói khổ từ đời này sang đời khác liên tục không biết khi nào dừng.

Trong kinh đức Phật dạy rằng: cái khổ bị thiêu đốt ở địa ngục chưa phaỉ là khổ, cái khổ làm ngạ quỷ đói khát chưa phải là khổ, cái khổ làm trâu ngựa kéo cày kéo xe chưa phải là khổ, mà chỉ si mê không biết lối đi mới là khổ, cho nên đức Phật nói vô minh mê lầm là khổ nhất. Bởi vì nó dẫn mình đi trong luân hồi vô số kiếp. Phá được nó không còn lầm lẫn nữa, gọi là giải thoát sanh tử. Ðược vậy mới thực sự hết khổ. Ðạo Phật hết sức thâm sâu, chỉ vì người ta không biết nên mới phê phán thế này thế nọ.

Vì đạo Phật đưa chúng ta đi quá cái tầm thường của con người nên con người khó tin khó nhận. Ðức Phật thấy tột cội nguồn nên Ngài thường chỉ dạy cho chúng ta đến chỗ đó mới là cứu kính. Không phải tu chút ít được phước sanh cõi lành mà cho là đủ.

Sợi dây xích dù bằng vàng nhốt chúng ta trong nhà lầu cũng bằng vàng, nhưng chúng ta vẫn thấy khổ như thường. Bởi vì còn dây xích là còn khổ, dù xích vàng hay sắt gì cũng đều khổ hết, khi nào thoát khỏi dây xích mới hết khổ. Giải thoát là như vậy. Cho nên đạo Phật không khuyên chúng ta tu để đời sau được sanh lên cõi trời, mà phải giải thoát sanh tử. Ðó mới là cội gốc.

Thế nên chúng ta phải biết những gì đức Phật dạy là những phương thuốc trị bệnh cho chúng sanh hết khổ. Từ bệnh tham, bệnh sân, bệnh si v.v… những bệnh đó bớt được là bớt khổ. Nếu được hết sạch thì sẽ đi đến chỗ giải thoát sanh tử. Những phương pháp Phật dạy gọi là đạo đế. Dứt được mầm đau khổ là diệt đế, là giải thoát sanh tử.

Như vậy, học Phật tu Phật là ứng dụng phương pháp Phật dạy. Thầy thuốc cũng vậy, chẩn bệnh, cho thuốc bệnh nhân phải uống thuốc mới lành bệnh. Nếu cứ xin thầy cho tôi hết bệnh mà không chịu uống thuốc thì có lành bệnh không? Ðạo Phật vì thế rất thực tế chớ không phải huyền hoặc như người ta tưởng.

Hiểu được vậy mới thấy giá trị đạo Phật rất chân thật. Người Phật tử không hiểu, vô tình làm cho đạo Phật trở thành mê hoặc. Lỗi đó tại ai? Cũng tại một phần ở nhà chùa. Giáo lý Phật dạy quá rõ ràng mà người tu không áp dụng, không đem ra dạy lại dạy những chuyện đâu đâu, rốt cuộc nhìn đạo Phật có khác gì ngoại đạo. Những gì ưu, những gì quý của đạo Phật cũng không biết. Cứ nói đạo nào cũng dạy ăn hiền ở lành thôi, mà không biết gốc của đạo Phật là thế nào. Vì không thấy được điều đó nên bữa nay theo đạo Phật, mai mốt theo đạo khác, miễn đạo nào cũng ăn hiền ở lành là được. Như vậy là không hiểu đạo Phật.

Hôm nay nhân gặp gỡ quý vị thầy thuốc nên tôi nói về thuốc của đạo Phật, bởi vì bác sĩ, thầy thuốc là thực tế khoa học, thì đạo Phật cũng thực tế khoa học, không có gì huyền bí hết, chỉ tại người không hiểu và nhận định sai lầm thôi.

Mong quý vị suy gẫm kỹ và ứng dụng tu hành cho có kết quả.

(Nguyệt san Giác Ngộ số 50-52 Năm 2000)